Phân tích Người lái đò sông Đà chọn lọc nhiều người quan tâm

Dưới đây là bài văn mẫu phân tích đoạn trích “Người lái đò sông Đà” – một áng văn tuyệt đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân, được biên soạn bởi đội ngũ của Quà tặng pha lê Bình Minh. Kính mời quý bạn đọc cùng tham khảo!

Phân tích Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông đã ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua tác phẩm “Vang bóng một thời”. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông tiếp tục cho ra đời nhiều tác phẩm mang đậm dấu ấn sáng tạo cá nhân. Là một nhà văn yêu cái đẹp, Nguyễn Tuân luôn tìm cách khám phá mọi góc cạnh của vẻ đẹp trong cuộc sống. Dưới ngòi bút của ông, con người và thiên nhiên trở thành những công trình nghệ thuật vừa độc đáo vừa kỳ vĩ.

phân tích người lái đò sông đà

Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được trích từ tập tùy bút Sông Đà do ông sáng tác vào năm 1960. Đây là kết quả của chuyến đi đầy gian nan nhưng cũng vô cùng hứng khởi của Nguyễn Tuân tới vùng Tây Bắc hiểm trở. Trong đoạn trích, sông Đà hiện lên với hình ảnh quanh co, uốn lượn bên những triền núi. Sông Đà với dòng chảy xiết và độ dốc lớn mang đến vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ. Chính sự hung bạo nhưng đầy trữ tình của dòng sông đã tôn lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò, một nghệ sĩ của thiên nhiên.

Ngay từ những dòng mở đầu, Nguyễn Tuân đã cuốn độc giả vào cảm giác vừa sợ hãi vừa mê đắm trước bức tranh sông Đà dữ dội, bạo liệt. Điều này thể hiện rõ ràng qua những câu miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách thành”. Nhà văn sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, biến những vách đá bên bờ sông thành những thành trì vững chắc, ẩn chứa vô vàn bí mật và sự nguy hiểm. Càng dấn sâu vào từng trang văn, người đọc càng bị cuốn hút bởi những cách so sánh, ví von độc đáo về con sông Đà.

Nguyễn Tuân vẽ lên hình ảnh dòng sông qua những câu chữ sống động: chỉ “đúng ngọ” mới có thể thấy mặt trời trên mặt sông, và khi đó các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, thậm chí có đoạn khiến người ta tưởng tượng như “con hươu, con nai nhảy từ bờ này sang bờ kia”. Những liên tưởng của tác giả, tuy có vẻ ngẫu nhiên, nhưng lại rất hợp lý, cho thấy sự tinh tế trong cách ông cảm nhận và diễn đạt. Chẳng hạn, động từ “chẹt” – vốn thường xuất hiện trong ngôn ngữ đời thường – lại trở nên hoàn hảo khi kết hợp với hình ảnh “như một cái yết hầu”, tạo nên sự ăn khớp mà không từ ngữ nào có thể thay thế.

Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng sông Đà còn được Nguyễn Tuân khắc họa qua cảm giác lạnh lẽo ngay cả giữa mùa hè. Cảm giác ấy không chỉ phản ánh không khí lạnh giá của vùng núi mà còn tạo nên một khung cảnh tráng lệ, hùng vĩ, với những vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé trước sự bao la của thiên nhiên.

Chính sự hung bạo của dòng sông Đà đã làm nền tôn vinh vẻ đẹp trữ tình và hình tượng người lái đò. Cảnh sông dữ dội được Nguyễn Tuân khắc họa rõ nét ở ghềnh Hát Lóong, nơi dòng sông cuồn cuộn với hàng ngàn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu mà từ “xô” được lặp lại ba lần, kết hợp với loạt từ có thanh sắc, tạo nên cảm giác sóng, gió và nước như tạt thẳng vào người, ngày càng mạnh mẽ và dồn dập. Qua đó, ta cảm nhận được sức mạnh khủng khiếp, lạnh lùng của thiên nhiên, như những con thú hoang dữ tợn, sẵn sàng giơ nanh vuốt thách thức con người.

Vẻ hung bạo ấy còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua những “hút nước” khổng lồ ở đoạn sông Tà Mường Vát. Dưới góc nhìn của ông, những xoáy nước trông như “giếng bê tông” thả xuống để làm móng cầu. Bằng biện pháp nhân hóa, ông biến những xoáy nước thành những sinh thể biết thở, biết kêu, ví chúng như một cái cống bị sặc, sống động và đầy hấp dẫn. Chưa có nhà văn nào khác so sánh một cách độc đáo như Nguyễn Tuân, giúp người đọc, dù chưa từng tận mắt thấy sông Đà, vẫn cảm nhận được mức độ hiểm nguy của nó. Những “hút nước” ấy có thể nuốt chửng mọi thứ, và không có con thuyền nào dám đến gần nếu không muốn bị kéo và dìm xuống lòng sông sâu thẳm.

Đặc biệt, tại khúc thác sông Đà, vẻ dữ dội và hiểm ác của dòng sông được Nguyễn Tuân khắc họa rõ nét hơn bao giờ hết. Ông sử dụng những âm thanh mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng nước “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”, miêu tả dòng sông vừa như đang “oán trách”, lúc lại “van xin”, rồi lại “khiêu khích”. Đôi khi, tiếng nước rống lên như “một ngàn con trâu mộng” đang vật lộn giữa rừng cháy. Không chỉ vậy, đá trên sông Đà dường như tụ lại thành một “chân trời đá” mênh mông với những hình thù “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.

Nguyễn Tuân dùng những tính từ miêu tả con người để khắc họa những tảng đá vô tri, khiến chúng trở nên sống động và có hồn. Từ đó, người đọc cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá, như thể chúng là những thực thể có ý chí. Qua trí tưởng tượng phong phú của tác giả, sông Đà dần hiện lên như một “loài thủy quái khổng lồ”, đầy độc ác và nguy hiểm, tạo nên một hình tượng thiên nhiên dữ dội, thử thách bản lĩnh con người.

Dòng sông Đà không chỉ mang vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội, mà còn ẩn chứa trong mình sự trữ tình, thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Vẻ đẹp thùy mị như một thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc độ, ở các không gian và thời gian khác nhau. Với ông, khi nhìn từ trên cao, sông Đà uốn lượn như mái tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm, “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”.

Nguyễn Tuân còn tinh tế khi miêu tả màu nước thay đổi theo mùa của dòng sông: mùa xuân, nước sông xanh như “ngọc bích”, còn mùa thu thì “lừ lừ chín đỏ”. Trong trí tưởng tượng của ông, đôi khi sông Đà nhẹ nhàng như một cố nhân, mang sắc thái “màu nắng tháng ba Đường thi”, với bờ sông đầy những chuồn chuồn, bươm bướm bay lượn. Hai bên bờ sông như được nhuộm màu cổ tích, và tác giả đã khéo léo miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết, khiến cho dòng sông Đà không chỉ hiện lên với vẻ đẹp thiên nhiên sống động mà còn mang trong mình những hoài niệm xưa cũ, làm say lòng người.

Bên cạnh hình ảnh sông Đà hùng vĩ là hình tượng người lái đò tài hoa. Thiên nhiên càng dữ dội, bao la bao nhiêu thì lại càng tôn lên vẻ đẹp trí tuệ, bản lĩnh và đức độ của người lái đò. Ông là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, kiên cường và dũng cảm. Phẩm chất đáng quý ấy của ông được thể hiện rõ qua cảnh vượt thác sông Đà đầy nguy hiểm. Trước dòng sông hung bạo, người lái đò phải giữ vững sự tỉnh táo và kiên định để có thể vượt qua được “ma trận” của những vòng thác dữ. Đối mặt với “thạch trận”, ông không hề nao núng, vẫn giữ chắc mái chèo, không để bị dòng nước cuốn đi.

Mặc cho mặt nước reo hò, sóng gió cuộn trào, như những “quân liều mạng” lao vào, thúc vào bụng và hông thuyền, ông lái đò vẫn kiên quyết không lùi bước. Sóng nước bám chặt như những “đô vật” cố gắng vật ngã ông, nhưng ông vẫn không khuất phục. Dù bị thương đến mức “mặt méo bệch đi”, ông vẫn nén đau, giữ chặt buồng lái, tiếp tục chỉ huy chiếc thuyền vượt qua mọi vòng vây thạch trận hiểm trở. Vẻ đẹp của người lái đò không chỉ nằm ở sự mạnh mẽ, can đảm, mà còn là ở sự tinh tế và khéo léo trong việc đối phó với thiên nhiên, vượt qua những thử thách cam go bằng trí tuệ và nghị lực phi thường.

Qua truyện ngắn “Người lái đò sông Đà,” Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc, kết hợp từ binh pháp, âm nhạc, võ thuật đến thể thao. Sử dụng các biện pháp tu từ như nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người lái đò tài hoa và dòng sông Đà huyền thoại. “Người lái đò sông Đà” thực sự là một tác phẩm vô giá, thôi thúc độc giả muốn xách ba lô lên khám phá vùng Tây Bắc, chiêm ngưỡng vẻ đẹp vừa hùng vĩ, dữ dội, vừa trữ tình của con sông này. Đồng thời, qua hình tượng ông lái đò, ta càng thêm yêu quý và hiểu rõ hơn về những con người gan dạ, kiên cường nơi đây.

Để lại một bình luận

zalo-icon
phone-icon