Phân tích Hạnh phúc một tang gia trong số đổ của Vũ Trọng Phụng

Một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu thể hiện xu hướng hiện thực phê phán mạnh mẽ xã hội tư sản thành thị trước năm 1945 là tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng. Kính mời quý bạn đọc theo dõi bài viết dưới đây của Quà tặng pha lê Bình Minh, bài viết sẽ cung cấp mẫu phân tích “Hạnh phúc của một tang gia” chọn lọc và hay nhất.

Phân tích “Hạnh phúc của một tang gia” chọn lọc hay nhất

Bước ra khỏi những trang cổ tích dịu dàng của Thạch Lam, và đắm chìm trong nỗi bi thương, mất mát của những cuộc đời như tấm vải rách trong văn của Nam Cao, chúng ta quay về với hiện thực lố bịch của xã hội thành thị Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945. Đó là một xã hội được bao bọc bởi lớp vỏ văn minh “Âu hóa,” nhưng ẩn chứa những trò đời kệch cỡm, nhảm nhí. Trong bối cảnh Tây – Ta đan xen, Vũ Trọng Phụng đã phác họa những tiếng cười châm biếm, phản ánh sâu sắc qua các tình huống mâu thuẫn trong tác phẩm “Số đỏ,” điển hình là “Hạnh phúc của một tang gia.”

hạnh phúc một tang gia của vũ trọng phụng

Vũ Trọng Phụng, nhà văn và nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ XX, đã mang đến cho văn học một diện mạo hoàn toàn mới trước Cách mạng tháng Tám. Những sáng tác của ông thể hiện ý thức bênh vực người lao động, với ngòi bút trào phúng sắc sảo vạch trần những mặt xấu xa, bẩn thỉu của xã hội cũ. Ông đã thấu hiểu sâu sắc xã hội qua từng trang viết, và các tác phẩm của ông được coi như những thước phim vượt thời gian. Trào phúng là một điểm nhấn trong phong cách nghệ thuật của ông, tạo nên sức hút cả về nội dung lẫn hình thức. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách đó là “Hạnh phúc của một tang gia,” nằm trong chương XV của tiểu thuyết “Số đỏ,” được sáng tác năm 1936 và in thành sách năm 1938.

“Số đỏ” kể về nhân vật Xuân tóc đỏ, một kẻ bị coi là hạ lưu, nhưng bằng lời nói dối ngọt ngào và thủ đoạn mưu mô, đã vươn lên tầng lớp thượng lưu danh giá trong xã hội Âu hóa thời bấy giờ. Qua đó, nhà văn đã phê phán những con người nhố nhăng trong xã hội giao thời Đông Tây hỗn loạn.

Hạnh phúc của một tang gia” là câu chuyện xoay quanh cái chết của cụ Cố tổ, một người đã ngoài 80 tuổi. Sự ra đi của cụ không chỉ là nỗi buồn mà còn là niềm hạnh phúc của đại gia đình, từ vợ chồng ông Văn Minh, ông Phán, cậu Tú Tân đến cô Tuyết và đám con cháu. Ai nấy đều vui mừng vì cái chết của cụ. Ngay từ khoảnh khắc ông cụ mất, các con cháu đã có dịp khoe khoang với hàng xóm.

Đám tang được tổ chức theo nghi thức hiện đại của xã hội thượng lưu phương Tây. Những thế hệ con cháu mang danh hiếu thảo trong đám tang lại mặc những bộ trang phục pha trộn giữa Âu và Á, thể hiện các trò “mèo mả gà đồng” của dâu con. Những người đi đưa tang đều làm ra vẻ mặt nghiêm túc buồn rầu, nhưng lại bàn tán đủ chuyện trên đời, từ vợ con đến nhà cửa. Trong cảnh hạ huyệt, cậu Tú Tân hướng dẫn mọi người cách chụp từng bức hình chi tiết.

Đám tang của cụ Cố tổ thực chất là một cuộc diễu hành, thể hiện mọi trò hề của tầng lớp thượng lưu. Qua đoạn trích này, tác giả đã phơi bày những trò lố lăng, phi đạo đức và những truyền thống đã bị bôi bác bởi những kẻ sống dưới sự thống trị của thực dân xâm lược, tạo nên một bức tranh toàn cảnh về xã hội mục rữa, thối nát thời bấy giờ.

Điều đầu tiên mà chúng ta cảm nhận được chính là tiêu đề tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia.” Nó ngay lập tức gợi lên mâu thuẫn và sự nực cười của câu chuyện. Trong không khí tang lễ, thường gắn liền với mất mát và đau thương, nhưng ở đây, nỗi buồn đã được thay thế bằng niềm hạnh phúc, như thể đây là điều mà họ đã mong chờ và khao khát từ lâu.

Khi có tang, ông Phán lại cảm thấy vui mừng vì nhận thêm vài nghìn đồng, bù đắp cho khoản tiền bị vợ cắm sừng. Cụ Cố Hồng, con trai của cụ, lại mơ màng hình dung hình ảnh mình mặc áo gai, chống gậy, để mọi người thấy sự đau khổ của mình và khen ngợi đám tang hoành tráng. Ông Văn Minh hứng thú với chúc thư, nghĩ rằng thời điểm thực hành đã đến, không còn là lý thuyết viển vông nữa. Cậu Tú Tân thì phấn khích vì chỉ có lúc này mới có thể thể hiện tài chụp ảnh của mình, trong khi bà Văn Minh nôn nao chờ đợi để lăng xê những kiểu đồ tang thời thượng từ hiệu may Âu hóa. Cô Tuyết lại thêm phần vui mừng khi có dịp khoe cơ thể gợi cảm qua lớp áo tang mỏng manh, như thể muốn khẳng định rằng “chưa đến nỗi đánh mất chữ trinh.” Tất cả dường như đều tràn đầy hạnh phúc, không thể dấu diếm được.

Tất cả mọi người trong gia đình đều xem đây là một dịp may, thậm chí là một cơ hội đặc biệt để thỏa mãn những ý muốn và thực hiện những toan tính riêng tư của mình. Đám con cháu vô tâm, bất hiếu ấy đều tỏ ra vui mừng và thỏa thích ngay trong đám tang của chính gia đình. Trong “Hạnh phúc của một tang gia,” ta nhận thấy sự đi ngược lại với lẽ thường, khi niềm hân hoan và hạnh phúc lại đến từ những đứa con, đứa cháu giữa lúc đau thương mất mát. Việc kết hợp cặp từ “Hạnh phúc” và “tang gia” mang lại hàm ý trái ngược, như một tiếng cười chua chát, thể hiện rõ đặc sắc trào phúng của Vũ Trọng Phụng.

Trong không khí đám tang, không hề có sự thương xót nào, mà chỉ tràn ngập niềm vui, mỗi người đều mang những cảm xúc riêng. Sự tha hóa về nhân cách của đại gia đình này thể hiện rõ ở tâm lý chờ đợi chia sẻ gia sản kếch xù: “Cái chết kia làm cho nhiều người sung sướng lắm”.

Cái chết lại mang đến niềm vui cho mọi người, bởi bên trong họ đã đánh mất hoàn toàn nhân tính. Niềm vui của mỗi nhân vật được thể hiện qua nhiều sắc thái khác nhau.

Đầu tiên phải kể đến cụ Cố Hồng, người đang chờ đợi sự tôn trọng từ mọi người thông qua cách gọi “cụ Hồng”. Cái chết của cụ Cố tổ đồng nghĩa với việc cụ Hồng trở thành người có quyền lực nhất trong gia đình. Mặc dù vẫn còn trẻ và chưa đến tuổi “cụ”, ông khao khát được gọi như vậy, muốn nhận sự kính nể từ mọi người. Niềm vui của ông là được thể hiện sự già yếu trước mắt mọi người, mơ mộng về việc mặc áo xô gai, lụ khụ ho khạc để mọi người nghĩ rằng “Úi giời, con giai nhớn đã già thế kia”. Chỉ vì mong muốn được gọi là “cụ”, ông đã muốn cha mình ra đi — một lý do hết sức hài hước, và khi xem xét kỹ lưỡng, ta còn thấy nhiều lý do khôi hài khác nữa.

Ông Văn Minh càng vui mừng hơn khi chúc thư của cụ tổ đã được thực hiện sau khi cụ qua đời. Đây có lẽ là khoảnh khắc mà ông đã chờ đợi rất lâu, bởi giờ đây gia tài cụ để lại cho con cháu cuối cùng cũng được thực hiện, khiến ông không thể ngồi yên, luôn trông đợi từng giây, từng phút. Tâm lý này có lẽ cũng là tâm trạng chung của các thành viên trong gia đình thượng lưu, vì điều họ quan tâm nhất là xem mình sẽ được bao nhiêu trong chúc thư ấy. Một đứa cháu với tham vọng về món hời tài sản trước mắt đã dần làm méo mó nhân tính của mình.

Trong khi đó, bà Văn Minh đã lợi dụng đám tang của cụ Cố để quảng bá hiệu may của mình. Bà trưng bày những mẫu áo tang mới nhất, và cả gia đình đều diện những trang phục cách tân, thu hút sự chú ý của giới thượng lưu. Đám tang này không chỉ là sự kiện trang trọng mà còn là cơ hội để bà trình diễn bộ sưu tập từ hiệu may Âu hóa của mình, thu hút nhiều tầng lớp thượng lưu đến tham dự.

Cô Tuyết, con gái út của cụ Cố, diện những bộ trang phục thời thượng nhất trước mọi người. Bộ y phục mang tên “Ngây thơ” được miêu tả là “cái áo dài voan mỏng trong cóc – sê, trông như hở nửa nách và vú”. Trang phục này không chỉ làm mất đi sự tôn nghiêm cần có trong đám tang mà còn khiến cô trở thành biểu tượng cho sự phỉ báng và thiếu tôn trọng đối với người đã mất, mặc dù nó có ý định khẳng định sự trong trắng.

Cậu Tú Tân thì lại hân hoan vì có cơ hội sử dụng chiếc máy ảnh đã lâu không được dùng. Cậu chạy đi chạy lại, khua chân múa tay yêu cầu mọi người tạo dáng đủ kiểu. Hành động này thể hiện sự thờ ơ và vô tâm đối với người đã khuất của một đứa cháu bất hiếu.

Ông Phán, với cái “sừng” trên đầu, cũng vui mừng vì điều đó sẽ mang lại cho ông nhiều tiền hơn sau khi đám tang kết thúc. Ông có thể công khai tự hào với gia đình nhà vợ rằng mình là một người chồng bị cắm sừng, đồng thời cũng có thể vạch trần cô Hoàng Hôn lăng loàn. Trong số những người này, Xuân tóc đỏ có lẽ là người hạnh phúc nhất, bởi danh tiếng của hắn ngày càng tăng cao, uy tín ngày càng đáng tin hơn.

Đối với bạn bè của cụ Cố Hồng, đây lại là cơ hội để khoe mẽ các kiểu râu và những loại mề đay như “Bắc Đẩu Bội Tinh, Long Bội Tinh, Cao Mên Bội Tinh, Vạn Tượng Bội Tinh”. Đây không phải là ngẫu nhiên mà họ có cơ hội để trưng diện, mà giờ đây mọi ánh nhìn đều đổ dồn về họ để trầm trồ.

Không chỉ người nhà của cụ Cố tỏ ra vui mừng, mà ngay cả những người xung quanh cũng góp phần vào niềm hạnh phúc của gia đình thượng lưu này. Dù là một đám tang, nhưng không khí lại như một lễ hội, với kiệu bát cống, lợn quay che lọng, chẳng khác nào một đám cưới. Âm thanh của cả kèn ta lẫn kèn tây lố bịch hòa quyện vào nhau. Thậm chí, đây còn là cơ hội cho những “nam thanh nữ tú” tham gia vào những trò đùa cợt, thật đáng xấu hổ và đáng lên án.

Cảnh hạ huyệt chính là lúc thể hiện rõ nhất sự giả dối và vô đạo đức, tạo nên sự bi hài của đám con cháu trong gia đình. Vũ Trọng Phụng đã khắc họa một khung cảnh đầy “ưu thương”, phản ánh sự thối nát của những kẻ này. Cậu Tú Tân như một đạo diễn trong vở kịch bi hài, không ngừng bắt bẻ từng người để tạo dáng, thậm chí bạn bè của cậu còn nhảy lên cả ngôi mộ để chọn góc chụp. Cảnh tượng khiến người đọc vừa cảm thấy buồn cười vừa xót xa, khi nơi hạ huyệt biến thành sàn diễn, tình cảm dành cho người đã mất chỉ là một màn diễn xuất lố bịch.

Cụ Cố Hồng “ho khạc mếu máo và ngất đi”, nhưng trong tâm trí ông chỉ lo nghĩ đến tiền bạc và danh dự, khiến việc khóc lóc trở nên giả tạo. Đặc biệt, tiếng khóc lớn nhất lại phát ra từ ông Phán mọc sừng, người trực tiếp gây ra cái chết của cụ Cố, đang tỏ ra đau khổ một cách thái quá. Tiếng khóc “hứt, hứt” của ông chỉ thu hút sự chú ý của mọi người xung quanh. Khi Xuân đến đỡ ông, tiếng khóc của ông không phải là sự tiếc thương chân thật, mà chỉ là sự kìm nén niềm hạnh phúc giấu kín.

Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng đã phơi bày toàn bộ sự lừa lọc, nhẫn tâm, và vô nhân tính của đám con cháu bất hiếu. Đám tang diễn ra như một vở hài kịch, với những nhân vật chính là những kẻ vô tâm, tạo ra một tình huống trái ngược hoàn toàn với đạo lý và phong tục. Một đám tang ngập tràn trong hạnh phúc mà không hề có chút tiếc thương nào, qua đó tác giả đã chỉ trích sự lố bịch và vô đạo đức của xã hội thượng lưu nửa thuộc địa phong kiến đương thời.

Từ cách đặt tên cho nhan đề, tên nhân vật, đến cách so sánh và đặt câu hỏi, mọi yếu tố đều thể hiện nét bút trào phúng, châm biếm sắc sảo. Một tác phẩm văn học như chiếc gương khổng lồ, phản ánh và soi rọi xã hội. Đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” là một ví dụ điển hình cho điều này. Tác giả không ngần ngại phanh phui những bộ mặt xấu xa, thối nát của xã hội Việt Nam đương thời. Những con thú đội lốt người rao giảng về “văn minh” và “âu hóa”, trong khi tâm hồn lại mục nát, thối rữa. Vũ Trọng Phụng dựng lên bức tranh xã hội mất nhân tính bằng thủ pháp đối lập giữa vẻ bề ngoài và thực chất của con người, từ đó tạo ra tiếng cười mỉa mai, sâu cay. Trước đó không lâu, Trần Tế Xương cũng đã khóc – cười cho xã hội truyền thống qua bài thơ “Mồng hai tết viếng cô Kí”.

Nét bút trào phúng độc đáo chính là một trong những yếu tố giúp tác phẩm trở nên nổi tiếng. Tác giả đã bóc trần lớp vỏ “văn minh”, phơi bày bản chất xấu xa của tầng lớp thượng lưu tư sản. Đồng thời, tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội trước cách mạng, nơi một gia đình băng hoại về đạo đức lại được coi là chuẩn mực.

Hy vọng bài viết trên của Luật Minh Khuê đã mang đến cho quý bạn đọc những kiến thức hữu ích. Chân thành cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Xin mời tham khảo thêm nội dung liên quan.

Để lại một bình luận

zalo-icon
phone-icon